THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG SỮA MẸ VÀ SỮA CÔNG THỨC TRẺ SINH NON P3

8 phút đọc /
Sự phát triển của trẻ

CHẤT BÉO

Nhu cầu và tăng cường chất béo – Lượng chất béo được khuyến nghị cho trẻ sinh non được nuôi bằng đường ruột hoàn toàn là 4,8 đến 6,6 g/kg/ngày (hoặc 4,4 đến 6,0 g/100 kcal) [1].

  • Sữa mẹ tăng cường – Sữa mẹ thường cần tăng cường chất béo để đạt được lượng chất béo thích hợp. Hàm lượng chất béo trong sữa mẹ chưa thanh trùng rất khác nhau, từ khoảng 2,6 đến 3,7 g/dL [2]. Giả sử nồng độ chất béo là 3 g/dL, trẻ sinh non nặng 1000g được nuôi dưỡng bằng đường tiêu hóa hoàn toàn sẽ cần tiêu thụ 160 đến 220 mL/ngày để đạt được mục tiêu về lượng chất béo. Thể tích này gần hoặc cao hơn thể tích mà hầu hết trẻ sinh non có thể dung nạp được, ngay cả khi trẻ khỏe mạnh. Tăng cường sữa mẹ bằng cách thêm chất tăng cường sữa mẹ (HMF) làm tăng hàm lượng chất béo trong sữa lên 4,4 đến 4,8 g/dL (sử dụng HMF gốc sữa bò) hoặc lên 4,7 đến 6,4 g/dL (sử dụng sữa mẹ HMF). Do đó, sữa tăng cường cung cấp đủ chất béo với thể tích từ 100 đến 140 mL/ngày mà trẻ thường dung nạp được.
  • Sữa công thức trẻ sinh non – Trong sữa công thức dành cho trẻ sinh non, nồng độ chất béo thay đổi tùy theo nhà sản xuất và mật độ calo, dao động từ 3,4 đến 6,7 g/dL.

 

Tổng hàm lượng chất béo – Tổng chất béo chiếm khoảng 3,9 phần trăm sữa mẹ [16] và cung cấp tới 40 đến 50 phần trăm tổng năng lượng nạp vào trong sáu tháng đầu [17,18]. Tổng hàm lượng chất béo nói chung ở sữa trẻ sinh non cao hơn so với sữa dành cho trẻ đủ tháng [2].

Hàm lượng chất béo trong sữa mẹ có sự thay đổi giữa các bà mẹ cao nhất trong số ba chất dinh dưỡng đa lượng chính (chất béo, protein và carbohydrate), với hệ số biến thiên gần 40 phần trăm [18]. Hàm lượng chất béo cũng khác nhau đáng kể giữa các mẫu thu được từ chỉ một người mẹ, với hàm lượng chất béo cao hơn ở:

  • Sữa trưởng thành hơn (đạt đỉnh sau ba tuần sau sinh [2], sau đó giảm dần sau sáu tháng sau sinh [18])
  • Cuối ngày [19,20]
  • Thời gian cho ăn lâu hơn [18]
  • Khoảng thời gian giữa các lần cho ăn dài hơn

Trong một loạt các mẫu sữa đủ tháng, tổng nồng độ chất béo trung bình trong sữa ở giai đoạn sớm khi bú (sữa đầu) là 3,2 g/dL, so với 5,6 g/dL trong sữa được xuất hiện giai đoạn sau khi đang bú (sữa sau) [21].

 

Triglycerid – Hầu như tất cả chất béo trong sữa mẹ được đóng gói dưới dạng triglycerid (còn được gọi là triacylglycerid), bao gồm ba chuỗi axit béo trên khung sườn glycerol [18].

  • Phân loại – Axit béo được phân loại theo [22]:
  • Chiều dài chuỗi carbon:

- Axit béo chuỗi ngắn có 2 đến 5 nguyên tử carbon

- Axit béo chuỗi trung bình có 6 đến 12 nguyên tử carbon

- Axit béo chuỗi dài có 13 đến 21 nguyên tử carbon

- Axit béo chuỗi rất dài có 22 nguyên tử cacbon trở lên

  • Mức độ "bão hòa":

- Các axit béo bão hòa chỉ có các liên kết đơn giữa các nguyên tử carbon (tức là số lượng Hydro trên mỗi carbon là tối đa)

- Axit béo không bão hòa đơn có một liên kết đôi giữa các nguyên tử carbon

- Axit béo không bão hòa đa có nhiều liên kết đôi giữa các nguyên tử carbon

 

Các chất béo chính trong sữa mẹ – 85% axit béo trong sữa mẹ là chất béo bão hòa hoặc không bão hòa đơn, trong khi axit béo không bão hòa đa chiếm 15% [17,18]. Mỗi loại này đều có những lợi ích sức khỏe quan trọng đối với trẻ sinh non.

  • Axit béo bão hòa – Axit palmitic (C16:0) cho đến nay là axit béo bão hòa phổ biến nhất trong sữa mẹ và chiếm 20 đến 25% tổng số axit béo trong suốt thời kỳ cho con bú [17]. Cấu hình axit palmitic hơi khác giữa sữa mẹ (hầu hết được este hóa ở vị trí sn-2) so với sữa công thức được este hóa ở vị trí 1,3). Ý nghĩa lâm sàng của sự khác biệt này vẫn chưa được xác định, mặc dù mối liên quan giữa quá trình ester hóa sn-2 và tính đồng nhất của phân mềm hơn đã được đề xuất dựa trên bằng chứng chất lượng thấp [23].
  • Axit béo không bão hòa đơn – Axit oleic (C18:1n-9) là một axit béo không bão hòa đơn và đại diện cho 30 đến 36 phần trăm axit béo trong sữa mẹ trong suốt thời kỳ cho con bú.
  • Axit béo không bão hòa đa chuỗi dài (LCPUFA) – LCPUFA đại diện cho 15 phần trăm của tất cả các axit béo trong sữa mẹ. LCPUFA có thể được phân nhóm thành axit béo omega-3 (n-3) hoặc omega-6 (n-6) tùy thuộc vào vị trí của liên kết đôi. Axit arachidonic (ARA; n-6) và axit docosahexaenoic (DHA; n-3) là những thành phần quan trọng của mô thần kinh và do đó rất quan trọng đối với sự phát triển thần kinh. Cả ARA và DHA đều có trong sữa mẹ với lượng nhỏ, còn lượng lớn hơn là tiền chất của ARA, axit linoleic.
  • Kể từ đầu những năm 2000, sữa công thức dành cho nhũ nhi, bao gồm cả những loại dành cho trẻ sinh non, đã được bổ sung thường xuyên ARA và DHA, mặc dù phân tích tổng hợp có hệ thống đã không cho thấy lợi ích sức khỏe rõ ràng của chiến lược này [24]. Các tác dụng có thể có và bằng chứng lâm sàng hạn chế được thảo luận trong một đánh giá chủ đề riêng biệt.
  • Axit béo chuỗi trung bình hoặc triglycerid chuỗi trung bình (MCT) chiếm một tỷ lệ nhỏ trong sữa mẹ [17]. Ngược lại, MCT chiếm tới 50% tổng lượng chất béo trong sữa công thức với nỗ lực bù đắp cho sự tiêu hóa chất béo bị suy giảm ở trẻ sơ sinh và tăng khả năng hấp thụ tổng thể chất béo và cung cấp năng lượng để tối ưu hóa sự tăng trưởng [25]. Tuy nhiên, bất chấp những lợi ích lý thuyết này, việc tăng hàm lượng MCT trong sữa công thức cho trẻ sơ sinh không liên quan đến việc cải thiện tăng trưởng [26].

 

Lipid phức tạp – Lipid phức tạp chiếm 0,2 đến 1 phần trăm tổng số lipid, với nồng độ từ 100 đến 400 mg/L [18,27]. Mặc dù đây là một phần nhỏ so với triglycerid, bao gồm một số chất có vai trò sinh học quan trọng, bao gồm cholesterol, sphingolipid (ví dụ: ceramides), ganglioside, phospholipid và plasmalogens.

 

Vận chuyển và tiêu hóa lipid

Màng hạt chất béo trong sữa – Trong sữa mẹ, lipid được đóng gói trong các hạt chất béo sữa, một khối cầu ba màng trong đó lipid phức tạp và các protein hoạt tính sinh học quan trọng được gắn vào màng ngoài [17,18]. Những lợi ích có thể có từ các lipid phức tạp và thành phần protein này, cũng như việc cung cấp chất béo được cải thiện so với lipid tự do, đã được đề xuất nhưng chưa được thiết lập. Hai thử nghiệm ngẫu nhiên nhỏ ở trẻ đủ tháng phát hiện ra rằng trẻ dùng sữa công thức có bổ sung màng cầu chất béo sữa và lactoferrin có điểm số cao hơn về các biện pháp phát triển nhận thức ở 12 đến 18 tháng tuổi [28-30], nhưng không có sự khác biệt về kết quả ở 6,5 tuổi [31]. Sữa công thức bổ sung màng hạt chất béo sữa không được so sánh trực tiếp với sữa mẹ và không có thử nghiệm nào được thực hiện ở trẻ sinh non.

Lipase tụy – Nhũ nhi khi được sinh ra có tuyến tụy kém phát triển, với quá trình thủy phân và hấp thu chất béo kém hiệu quả do tuyến tụy sản xuất và bài tiết lipase hạn chế. Trong sữa mẹ có chứa các enzym tuyến tụy, giúp hỗ trợ quá trình tiêu hóa chất béo ở trẻ sơ sinh. Ngược lại, sữa công thức thiếu men tiêu hóa và quá trình thanh trùng sữa mẹ sẽ phá hủy các men tiêu hóa này. Kết quả là quá trình thủy phân và hấp thụ các axit béo triglycerid đối với sữa mẹ đã thanh trùng và sữa công thức bị giảm so với sữa mẹ [32].

Bổ sung sữa công thức hoặc sữa mẹ thanh trùng có men tụy không được khuyến khích cho trẻ sinh non. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, sử dụng lipase tái tổ hợp không cải thiện kết quả tăng trưởng và tăng nguy cơ biến chứng đường tiêu hóa [33].