Thực phẩm bổ sung chất lượng cao có thể cải thiện sức khỏe và sự tăng trưởng lâu dài của trẻ?

author
6 phút đọc /

Trong bài blog này GS. Mary Fewtrell bàn luận về việc bú sữa mẹ và việc cho bé ăn dặm đúng lúc giúp kiểm soát dị ứng và bệnh không dung nạp gluten.

Breastfeeding

Thưa GS. Fewtrell, bà có nói về dinh dưỡng cho trẻ và tầm quan trọng của sữa mẹ, thời gian bú sữa mẹ và các khuyến cáo chính của WHO. Ở các nước châu Âu với nền văn hóa đa dạng, mỗi nước có thời gian cho trẻ bú sữa mẹ khác nhau, và ở Anh thậm chí thời gian mẹ cho bé bú là ngắn hơn cả. Bà có thể vui lòng cho biết nguyên nhân, và ý kiến của riêng bà về vấn đề này?

Khu vực châu Âu của chúng ta có nhiều dữ liệu hơn các khu vực khác, vì vậy số liệu có thể đáng tin cậy hơn. Tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ trên thực tế ngày càng tăng, các bà mẹ ngày càng lưu tâm đến khuyến cáo cho trẻ bú sữa mẹ và chúng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này, do đó ngày càng có nhiều bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ. Tuy nhiên tỷ lệ bé bú sữa mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu đời thì lại không tăng lên. Thật ra trẻ ngày càng được cho ăn dặm sớm hơn, nên nếu chúng ta xem lại dữ liệu trong 10-15 năm gần đây thì tỷ lệ trẻ được cho ăn dặm trước 4 tháng tuổi có khuynh hướng tăng. Hầu hết bà mẹ cho trẻ ăn dặm từ 4-5 tháng tuổi.

Nếu mẹ cho trẻ ăn dặm từ sau 4 tháng tuổi thay vì từ sau 6 tháng tuổi, có gây bất lợi gì cho việc phòng ngừa dị ứng và bệnh không dung nạp gluten không?

Gần đây có 2 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng về bệnh không dung nạp gluten, đã khảo sát thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn gluten, và cả 2 nghiên cứu đều ghi nhận việc cho trẻ ăn gluten từ 4-6 tháng tuổi hay từ 6-12 tháng tuổi đều không ảnh hưởng đến việc trẻ có bị không dung nạp gluten hay không.

Các bệnh lý này là do kiển gien quyết định, do đó chúng không liên quan đến thời điểm cho trẻ ăn gluten.

Về vấn đề dị ứng, hiện nay tôi nghĩ chúng ta chưa có đủ dữ kiện để xác định rằng cho trẻ dùng thực phẩm sinh dị ứng trước 4 tháng là tốt hay không.

Chúng tôi đang thực hiện một số nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng so sánh việc tập cho trẻ ăn trứng, đậu phộng, và một số loại thực phẩm gây dị ứng từ 3-4 tháng tuổi; so với việc trì hoãn cho trẻ dùng các thực phẩm này. Tôi nghĩ vào năm sau chúng ta sẽ có đủ dữ kiện để đưa ra lời khuyên tốt hơn.

Trong lúc này, thời điểm tập cho trẻ ăn dặm thường tùy thuộc địa phương trẻ đang sống.

Chúng tôi luôn nhấn mạnh rằng nếu trẻ sinh ra trong một nước thu nhập thấp không có nước sạch hay không có đủ thực phẩm bổ sung, thì việc kéo dài thời gian cho trẻ chỉ bú sữa mẹ là điều đúng, vì nó giúp trẻ chống chọi với vi khuẩn, và có thể giúp bảo vệ tính mạng trẻ nếu trẻ bị nhiễm trùng.

Nếu trẻ sinh ra ở Châu Âu, ví dụ như ở Anh, nguy cơ nhiễm trùng thấp hơn, thì việc cho trẻ ăn dặm sớm từ 4 tháng tuổi có thể có ích. Có lẽ chúng ta nên uyển chuyển hơn về vấn đề này.

Câu hỏi cuối cùng dành cho bà: Hiện có bằng chứng về việc cho trẻ ăn dặm trước 4 tháng tuổi có khả năng làm tăng nguy cơ béo phì trẻ em không?

Dữ liệu cho các vấn đề này hiện vẫn chưa rõ. Có một số nghiên cứu mô tả ghi nhận trẻ ăn dặm trước 4 tháng tuổi có nguy cơ thừa cân cao hơn trong giai đoạn ấu thơ. Tuy nhiên đây chỉ là nghiên cứu mô tả, và do đó sẽ có rất nhiều yếu tố gây nhiễu trong việc xác định mối liên quan. Tôi nghĩ chúng ta nên cẩn thận. Tuy nhiên cho dù dữ liệu chúng ta chưa hoàn hảo, chúng cũng gợi ý rằng không nên cho trẻ ăn dặm trước 4 tháng tuổi. Trong trường hợp trẻ không có nhu cầu dinh dưỡng bổ sung bằng thức ăn dặm sớm hơn, thì 4 tháng tuổi là thời điểm thích hợp trên thực tế để bắt đầu cho trẻ ăn dặm.