THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG SỮA MẸ VÀ SỮA CÔNG THỨC TRẺ SINH NON - P2
PROTEIN
Nhu cầu và bổ sung – Lượng protein khuyến nghị cho trẻ sinh non được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường ruột là 3,5 đến 4,5 g/kg/ngày (hoặc 3,2 đến 4,1 g/100 kcal). Lượng protein cao hơn (> 4,0 g/kg/ngày) có thể, được xem xét đối với những trẻ bị chậm tăng trưởng [1].
- Sữa mẹ tăng cường – Sữa mẹ phải được tăng cường để đạt được lượng protein thích hợp trong khối lượng cho ăn để có thể cung cấp một cách hợp lý cho trẻ sơ sinh nhẹ cân. Hàm lượng protein trong sữa mẹ không thanh trùng dao động từ 1,5 đến 2,2 g/dL trong một đến hai tuần đầu tiên sau khi sinh và sau đó giảm xuống 1,0 đến 1,4 g/dL từ ba tuần trở đi (sữa trưởng thành) [2]. Ở mức nồng độ protein thấp hơn này (1g/dL), trẻ sinh non được nuôi bằng đường ruột hoàn toàn với trọng lượng 1000g sẽ cần tiêu thụ 350 đến 450 mL/ngày, cao hơn gấp đôi so với thể tích dung nạp được bởi hầu hết trẻ sinh non. Tăng cường sữa mẹ bằng cách thêm chất tăng cường sữa mẹ (HMF) làm tăng hàm lượng protein trong thức ăn lên 2,5 đến 3,25 g/dL (sử dụng HMF gốc sữa bò) hoặc 1,9 đến 3,5 g/dL (sử dụng HMF gốc sữa mẹ). Nhờ đó, sữa tăng cường cung cấp đủ protein với thể tích 120 đến 150 mL/ngày, lượng bình thường trẻ sinh non có thể dung nạp được.
- Sữa công thức trẻ sinh non – Trong sữa công thức dành cho trẻ sinh non, nồng độ protein dao động từ 2,2 đến 3,3 g/dL, tùy thuộc vào mật độ calo, nhà sản xuất và loại công thức (tiêu chuẩn so với protein cao).
Whey và casein – Hàm lượng protein trong sữa mẹ được phân bổ theo ba phần. Phần lớn protein nằm trong phần whey hoặc casein, với một lượng nhỏ trong phần lipid, nằm trong màng của tế bào chất béo [3]. Các phần whey và casein khác nhau về đặc tính vật lý và protein đại diện của phần đó.
- Whey – Phần whey là phần sữa hòa tan, không bị vón cục sau khi axit hóa hoặc lên men và cung cấp khoảng 20% protein sữa [4]. Whey có trong alpha-lactalbumin, lactoferrin, lactoperoxidase và lysozyme, cũng như hàng trăm loại whey protein khác ít đặc trưng hơn [4,5]. Các loại whey protein này có một số chức năng điều hòa miễn dịch và chức năng tiêu hóa.
- Casein – Phần casein trong sữa là phần đông lại sau quá trình axit hóa hoặc lên men sữa. Casein là phần nhỏ hơn nhưng lại đậm đặc protein nên lại cung cấp khoảng 80% protein sữa [4]. Có ba tiểu đơn vị chính của casein: alpha (a)-, beta (b)- và kappa (k)-casein. Sữa bò và sữa mẹ chứa cả ba tiểu đơn vị, nhưng a-casein chỉ đại diện một thành phần nhỏ trong sữa mẹ [4,5]. b-casein là tiểu đơn vị phổ biến nhất trong ba tiểu đơn vị ở cả sữa bò và sữa mẹ [5].
Chuỗi polypeptid casein bao gồm các peptit có hoạt tính sinh học, có một số hoạt động quan trọng, bao gồm đặc tính điều hòa miễn dịch và kháng khuẩn, hoạt động chống huyết khối và hạ huyết áp, tác động lên nhu động đường tiêu hóa và đối kháng thụ thể opioid (được xác định bằng các nghiên cứu in vitro) [5].
Tỷ lệ whey:casein
- Sữa mẹ – Tỷ lệ whey:casein trong sữa mẹ là khoảng 80:20, chỉ giảm nhẹ trong giai đoạn cho con bú, được xác định bởi một nghiên cứu sử dụng các phương pháp hiện đại và chính xác [5]. Điều này trái ngược với các giá trị tham khảo trước đây, vốn cho rằng tỷ lệ whey:casein trong sữa mẹ trưởng thành là 60:40 hoặc 50:50 [6]. Tuy nhiên, giống như tất cả các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ, có sự khác biệt lớn giữa các người mẹ về tỷ lệ whey:casein.
- Sữa công thức trẻ sinh non – Tỷ lệ whey:casein trong sữa công thức khác nhau tùy theo nhãn hiệu và loại. Nói chung, sữa công thức cho trẻ sinh non thường có tỷ lệ 80:20. Tỷ lệ whey:casein cao được thiết kế để làm cho sữa công thức trẻ sinh non tương tự như sữa mẹ và được cho là cải thiện khả năng tiêu hóa so với các loại sữa công thức có tỷ lệ thấp hơn (ví dụ như 60:40, là loại sữa công thức đặc trưng cho trẻ đủ tháng) [7].
Thành phần axit amin – Thành phần axit amin của sữa mẹ có cấu hình hơi khác và nhiều axit amin tự do hơn so với sữa công thức trẻ sinh non. Những khác biệt này có thể giải thích một số lợi ích sinh lý và sức khỏe của sữa mẹ so với sữa công thức.
- Sữa mẹ – Hầu hết các axit amin trong sữa mẹ đều có trong protein whey và casein. Axit glutamic là axit amin chủ yếu [8], tiếp theo là serine, taurine, glutamine, alanin và axit aspartic [8,9]. Các axit amin thiết yếu (tức là các axit amin không thể được tổng hợp từ các axit amin khác) có mặt đầy đủ, đặc biệt là isoleucine, leucine, lysine, threonine và valine [8]. Thành phần axit amin thay đổi tùy theo yếu tố whey và casein [5]. Nói chung, nồng độ arginine, cystine, lysine, methionine và tryptophan cao hơn trong whey so với casein và do đó, các axit amin này nổi bật hơn trong các mẫu có tỷ lệ whey:casein cao [10,11].
Ngoài ra, 10 đến 25 phần trăm nitơ trong sữa mẹ là nitơ không protein. Các nguồn cung cấp nitơ không protein bao gồm urê (gần một nửa tổng lượng nitơ không protein), creatinin, oligosaccharide chứa nitơ, axit nucleic và axit amin tự do [12]. Trong số các axit amin tự do, glutamine, glutamate và taurine là nhiều nhất [8,13,14]. Các axit amin tự do có lợi cho trẻ đang phát triển vì được hấp thụ nhanh chóng và đóng vai trò là nguồn nitơ và dẫn chất cho chất dẫn truyền thần kinh và chất chống oxy hóa, cung cấp chất nền năng lượng cho đường ruột đang phát triển và hỗ trợ phát triển miễn dịch [14,15].
Tổng số protein và nồng độ axit amin tự do cao hơn trong sữa sinh non so với sữa đủ tháng [13]. Ngoài ra, khi quá trình cho con bú diễn ra, nguồn axit amin tự do giảm đi, ngoại trừ nồng độ tuyệt đối của axit glutamic, glutamine, serine, alanin và cystine tăng lên [13].
- Sữa công thức trẻ sinh non – Thành phần axit amin của sữa công thức phụ thuộc một phần vào tỷ lệ whey:casein. Sữa công thức trẻ sinh non bao gồm whey sữa bò bổ sung để tỷ lệ whey:casein gần giống với sữa mẹ hơn. Tuy nhiên, cấu hình axit amin khác nhau đã phản ánh cấu trúc của whey sữa bò so với whey của người. Ngoài ra, sữa công thức có hàm lượng nitơ không protein thấp hơn (khoảng 5%) và ngược lại với sữa mẹ, các axit amin tự do chủ yếu là taurine và methionine.