Dinh dưỡng trước và sau khi sinh: ảnh hưởng đến sức khỏe ngắn hạn và dài hạn

8 phút đọc /
Dinh dưỡng, sức khỏe và sống khỏe Tăng trưởng và phát triển
Hội nghị thường niên lần thứ 47 của Hiệp hội châu Âu về Tiêu hóa, Gan và Dinh Dưỡng Nhi khoa   (ESPGHAN, http://www.espghan2014.org/home) được tổ chức tại Jerusalem từ ngày 09- 12 Tháng Sáu năm 2014. ESPGHAN là một cuộc họp toàn cầu của hàng ngàn các bác sĩ ưu tú, các nhà nghiên cứu và các nhà khoa học ưu tú từ khắp nơi trên thế giới, nhằm tăng cường sức khỏe trẻ em tập trung vào các rối loạn tiêu hóa và dinh dưỡng. Trong hội nghị này, viện Dinh Dưỡng Nestlé tổ chức hai hội nghị chuyên đề vệ tinh về việc ngăn ngừa dị ứng thức ăn, chẩn đoán và điều  trị dị ứng protein sữa bò, cũng như chế độ dinh dưỡng trước và sau sinh. 

Dinh dưỡng trước và sau sinh: có thể cải tiến. 

Giáo sư Flavia Indrio (Khoa Nhi, Đại học Bari, Ý) nói về công tác phòng chống rối loạn tiêu hóa chức năng trong giai đoạn đầu đời với bổ sung probiotics. 

Đau bụng co thắt, trào ngược dạ dày - thực quản và táo bón (Infantile colic, gastro-esophageal reflux and constipation) là các rối loạn chức năng tiêu hóa phổ biến nhất dẫn đến việc phải thăm khám bác sĩ nhi khoa trong sáu tháng đầu tiên của cuộc sống và thường là nguyên nhân phải nhập viện, thay đổi cách nuôi ăn, sử dụng thuốc, gây lo lắng cho cha mẹ và khiến cha mẹ phải nghỉ việc vài ngày, cùng những hậu quả xã hội có liên quan. Nghiên cứu gần đây chỉ ra vai trò quan trọng của hệ vi sinh đường ruột trong rối loạn tiêu hóa; và có nhiều nghiên cứu nhắm mục tiêu điều trị probiotic đối với các bệnh cụ thể như đau bụng co thắt, nôn trớ (regurgitation) và táo bón. Hiệu quả của probiotic có thể đóng một vai trò quan trọng trong điều hòa bệnh viêm đường ruột.  

Berthold Koletzko (Bệnh viện Nhi Dr Von Hauner, Đại học Ludwig Maximilian Munich, Đức) nêu bật những tác động lâu dài của việc cung cấp protein cho trẻ nhũ nhi.
 
Dinh dưỡng sớm trong 1000 ngày đầu tiên của cuộc sống, từ lúc thụ thai tới thời kỳ thơ ấu, có thể gây ra hiệu ứng lập trình về sức khỏe và nguy cơ bệnh tật dài hạn cho đến lúc tuổi già. Tăng cân nhanh chóng trong giai đoạn nhũ nhi và thời kỳ thơ ấu gây ra một nguy cơ cao mắc bệnh béo phì, bệnh đái tháo đường, và bệnh không lây nhiễm khác sau này. Một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm qui mô lớn được tài trợ bởi Ủy ban châu Âu, với gần 1.700 trẻ nhũ nhi khỏe mạnh từ năm quốc gia châu Âu, đã chứng minh rằng sự nuôi ăn trẻ nhũ nhi có tác dụng mạnh mẽ đến kéo dài lập trình, với các phạm vi ảnh hưởng rất lớn trên bệnh béo phì sau này và nguy cơ mắc bệnh liên quan. Cho con bú giúp bảo vệ chống lại bệnh béo phì sau này và cần được thúc đẩy, bảo vệ và hỗ trợ một cách tích cực. Trẻ nhũ nhi không được bú sữa mẹ hoàn toàn cần có những sữa công thức dành cho trẻ nhỏ với hàm lượng protein giảm nhưng chất lượng protein cao. Sữa bò nguyên chất chứa protein nhiều hơn ba lần so với sữa mẹ và nên tránh dùng như là một thức uống trong năm đầu của cuộc sống bất cứ khi nào có thể thực hiện được với giá cả phải chăng. 

Các tiêu chuẩn quy định trong tương lai cho sữa công thức trẻ nhũ nhi và sữa công thức tiếp theo sẽ cho phép các công thức có hàm lượng protein thấp hơn so với đề nghị gần đây của EU (1,8g / 100kcal) nếu các thử nghiệm lâm sàng chứng minh được tính an toàn và hiệu quả của nó.

Các yếu tố thành công để ngăn ngừa dị ứng thức ăn, chẩn đoán và điều trị dị ứng protein sữa bò.

Giáo sư Ralf Heine (Khoa Tiêu hoá và Dinh dưỡng Lâm sàng tại Bệnh viện Nhi Đồng Hoàng Gia, Viện Nghiên cứu Nhi khoa Murdoch, Đại học Melbourne, Australia) chia sẻ những phát hiện mới về điều trị dị ứng protein sữa bò. 

Ngày càng gia tăng số lượng trẻ bị nghi ngờ dị ứng đạm sữa bò đường tiêu hóa được điều trị bởi các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia tiêu hoá nhi. Sự đa dạng trong biểu hiện lâm sàng và việc thiếu hụt dấu hiệu chẩn đoán rõ ràng vẫn còn đặt ra nhiều tình huống khó xử lý. Nhận dạng không chính xác hoặc chẩn đoán sai dị ứng thức ăn đường tiêu hóa, cũng như chế độ ăn kiêng thiếu cơ sở hoặc kém giám sát có thể dẫn đến kết cục dinh dưỡng xấu ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. 

Giáo sư Katarina Allen (Trung tâm nghiên cứu Thực phẩm & Dị ứng và nhóm dị ứng thức ăn, Sức khỏe Dân số, Viện nghiên cứu Nhi khoa Murdoch, Đại học Melbourne và Bệnh viện Nhi Đồng Hoàng Gia, Úc) nhấn mạnh chứng cứ hiện tại cho vai trò của việc giới thiệu sớm các loại thực phẩm trong việc phòng chống dị ứng thức ăn. 

Việc xác định các chiến lược phòng ngừa dị ứng thức ăn đã trở thành một vấn đề y tế công cộng quan trọng bởi sự gia tăng các bài thuyết trình trong bệnh viện về các phản ứng dị ứng thức ăn ở trẻ nhỏ. Đặc biệt, đã có sự quan tâm hơn đến việc liệu thời gian giới thiệu các thức ăn đặc (đặc biệt thức ăn đặc có thể gây dị ứng như trứng và đậu phộng) có đóng một vai trò trong sự phát triển của dị ứng thức ăn xuất hiện sớm hay không. Cho đến nay, nghiên cứu trong lĩnh vực này được giới hạn chủ yếu trong các nghiên cứu quan sát từ lúc sinh của các nhóm trẻ em đã tạo ra dữ liệu cho thấy việc chậm giới thiệu các thức ăn đặc gây dị ứng có thể làm tăng hơn là giảm nguy cơ dị ứng thức ăn. Tuy nhiên, những phát hiện từ các nghiên cứu này cần được xem xét một cách thận trọng vì khó loại bỏ các yếu tố có khả năng gây nhiễu khiến sinh ra các liên kết giả giữa sự lựa chọn thức ăn cho trẻ nhỏ và nguy cơ dị ứng thức ăn. 

Giáo sư Sibylle Koletzko (Bệnh viện Nhi Dr von Hauner, Đại học Ludwig Maximilian Munich, Đức) nói về việc áp dụng các hướng dẫn của ESPGHAN cho chẩn đoán và điều trị dị ứng Protein sữa bò. 
Dị ứng thức ăn đang ngày càng được phát hiện từ những vùng khác nhau của thế giới. Protein sữa bò là nguyên nhân hàng đầu gây dị ứng thức ăn ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ dưới ba tuổi. Triệu chứng và dấu hiệu liên quan đến dị ứng protein sữa bò có thể liên quan đến nhiều hệ thống cơ quan khác nhau, nhưng chủ yếu là da, đường tiêu hóa và hô hấp và các triệu chứng chung khác. 

Do không có chỉ dấu sinh học cụ thể và chính xác, cho nên nguy cơ chẩn đoán quá mức và dưới mức là rất cao nếu tiêu chuẩn chẩn đoán nghiêm ngặt không được áp dụng. Một qui trình hướng dẫn (thuật toán) cho công tác chẩn đoán và khuyến nghị rõ ràng về điều trị đã được phát triển bởi ESPGHAN. Mặc dù hướng dẫn này đơn giản, việc chẩn đoán vẫn còn bị bỏ sót với nhiều bệnh nhân. Các yếu tố ức chế tổng quát và có tính quốc gia và phần ảnh hưởng của chúng cần được xác định chính xác trong từng nước châu Âu khác nhau để thông qua chúng và tạo thuận lợi cho việc thực hiện các hướng dẫn, để cải thiện việc chăm sóc trẻ em, và để tiết kiệm chi phí cho xã hội. 

Lưu ý cho biên tập viên: 

Viện Dinh dưỡng Nestlé (NNI) với sứ mệnh "Khoa học vì một nền dinh dưỡng tốt hơn" bằng cách chia sẻ thông tin và giáo dục cơ sở khoa học để đóng góp và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên toàn thế giới. 

NNI chia sẻ thông tin trên cơ sở khoa học và giáo dục hàng đầu với các chuyên gia y tế, các nhà khoa học, các cộng đồng và các bên liên quan một cách tương tác.